Việt Nam hiện đã tham gia và đang đàm phán 20 hiệp định thương mại tự do, trong đó có 12 hiệp định đã thực thi và 2 hiệp định có hiệu lực trong năm nay.
Chiều 12/12, Bộ Tài chính họp báo chuyên đề: “Cắt giảm thuế quan theo các Hiệp định Thương mại tự do”.
Thời điểm hiện tại, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ 12 Nghị định về các biểu thuế ưu đãi cho các đối tác trong 12 hiệp định thương mại tự do đang thực thi tại giai đoạn 2018 – 2022/2023.
Thông tin trên được bà Trần Thị Thu Hiền, Trưởng phòng – Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài chính cho hay tại buổi họp báo chuyên đề “Cắt giảm thuế quan theo các hiệp định thương mại tự do,” ngày 12/12.
Theo đó, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành 12 Nghị định về các biểu thuế ưu đãi cho đối tác trong 12 hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia cho giai đoạn 2018 – 2022/2023 (riêng CPTPP là giai đoạn 2019 – 2022, và Việt Nam – Lào giai đoạn từ 1/9/2016 đến 3/10/2020. Tuy nhiên Nghị định biểu thuế Việt Nam – Lào đang thực hiện theo Danh mục thuế quan hài hoà ASEAN 2012).
Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN đã hoàn thành lộ trình cắt giảm thuế vào năm 2018. Các FTA đang tiến gần tới năm hoàn thành lộ trình xóa bỏ thuế gồm ASEAN – Trung Quốc (2020), ASEAN – Hàn Quốc (2021), ASEAN – Australia – New Zealand (2022) đạt tỷ lệ tự do hóa cao, khoảng 90% vào năm 2019.
Cùng kết thúc lộ trình vào năm 2029, tỷ lệ tự do hóa năm 2019 của Việt Nam trong FTA Việt Nam – Hàn Quốc đã đạt 85,63%, trong khi tỷ lệ này trong FTA Việt Nam – Chile mới chỉ đạt 31,73%. Còn lại, các Hiệp định đạt tỷ lệ tự do hóa trung bình khoảng 60% trong năm 2019 như ASEAN – Nhật Bản, ASEAN – Ấn Độ, Việt Nam – Nhật Bản, Việt Nam – Chile, Việt Nam – Liên minh Kinh tế Á-Âu.
Trong số 12 hiệp định đang thực hiện, CPTPP là hiệp định mới nhất được thực thi của Việt Nam. Ngày 26/6/2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 57/2019/NĐ-CP về Biểu thuế xuất khẩu ưu đãi, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định CPTPP giai đoạn từ ngày 14/01/2019 đến hết ngày 31/12/2022.
Về cam kết thuế xuất khẩu trong Hiệp định CPTPP, Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế đối với phần lớn các mặt hàng hiện đang áp dụng thuế xuất khẩu, cơ bản theo lộ trình từ 5-15 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Một số nhóm mặt hàng quan trọng (như than đá, than non, dầu thô, vàng,…) được tiếp tục duy trì thuế xuất khẩu.
Về cam kết thuế nhập khẩu trong Hiệp định CPTPP, Việt Nam cam kết xóa bỏ gần 100% số dòng thuế. Theo đó: 65,8% số dòng thuế có thuế suất 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực; 86,5% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 4 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực; 97,8% số dòng thuế có thuế suất 0% vào năm thứ 11 kể từ khi Hiệp định có hiệu lực; các mặt hàng còn lại cam kết xoá bỏ thuế nhập khẩu với lộ trình xóa bỏ thuế tối đa vào năm thứ 16 hoặc theo hạn ngạch thuế quan.
Ngoài cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình, Việt Nam và các nước thành viên CPTPP cam kết miễn thuế đối với các trường hợp như: hàng hóa tái nhập khẩu sau khi được sửa chữa hoặc thay thế; hàng tạm nhập khẩu để sửa chữa hoặc thay thế mà không thay đổi đặc tính cơ bản của sản phẩm; hàng mẫu thương mại có giá trị không đáng kể và ấn phẩm quảng cáo; hàng tạm nhập là các thiết bị chuyên ngành;… container bất kể xuất xứ từ đâu, đang hoặc sẽ được dùng để vận chuyển hàng hóa trong giao thông quốc tế. Các giao dịch điện tử, bao gồm các nội dung được truyền đưa bằng phương thức điện tử cũng được miễn thuế nhập khẩu.
Riêng trong năm 2019, tổng số FTA đã ký kết của Việt Nam (trừ CPTPP) là 4 hiệp định, bao gồm: Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu EU (EVFTA), Hiệp định Thương mại hàng hóa giữa ASEAN và Hongkong (Trung Quốc) (AHKFTA), Hiệp định Thương mại Việt Nam – Cu-ba và Bản thỏa thuận thúc đẩy thương mại song phương giữa Chính phủ 2 nước.
Đại diện Bộ Tài chính cũng cho biết, Hiệp định EVFTA sẽ được trình lên Quốc hội Việt Nam và Nghị viện EU để tiến hành thủ tục phê chuẩn để có hiệu lực thực thi (dự kiến trong nửa đầu năm 2020).
Việt Nam cam kết sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực với 48,5% số dòng thuế, tương đương 64,5% kim ngạch nhập khẩu từ EU, và sau 10 năm là khoảng 99% số dòng thuế, tương đương 99,8% kim ngạch nhập khẩu từ EU. Đối với số dòng thuế còn lại, Việt Nam sẽ có lộ trình trên 10 năm hoặc dành ưu đãi cho EU trên cơ sở hạn ngạch thuế quan của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Lộ trình cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với một số nhóm mặt hàng chính của Việt Nam như sau: Ôtô (sau 9 năm đối với ô tô phân khối lớn (trên 3.000 cc cho động cơ xăng và trên 2.500 cc cho động cơ diesel) và 10 năm đối với các loại ô tô còn lại); linh kiện, phụ tùng ô tô (tối đa 7 năm); hóa chất (tối đa 7 năm); đồ uống có cồn (tối đa 10 năm); thịt bò (3 năm), thịt lợn đông lạnh (7 năm), thịt gà (10 năm); sữa và sản phẩm sữa (3-5 năm); cá và các sản phẩm cá (3-7 năm); thuốc lá, xì gà (15 năm); máy móc thiết bị (tối đa 7 năm);…
Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế xuất khẩu với hàng hóa xuất khẩu sang EU với lộ trình lên đến 15 năm, trừ những mặt hàng được duy trì thuế xuất khẩu tập trung vào một số nhóm hàng quan trọng như dầu thô, than đá (trừ than để luyện cốc và than cốc); Cam kết về thuế xuất khẩu trong Hiệp định EVFTA cơ bản tương tự như cam kết về thuế xuất khẩu của Việt Nam trong Hiệp định CPTPP.